« Tôi sinh ra tại Sài Gòn năm 1946, khi ấy tôi 24 tuổi. »
- Năm 1922, sinh ra trong một gia đình trung lưu, tuổi thơ chăm chỉ học hành.
- Năm 1940, đỗ tú tài ban Triết và Toán, sau đó vào Đại Chủng viện Versailles.
- Năm 1945, được truyền chức linh mục cho Hội Thừa Sai Paris (MEP). Từ đó khởi lên ước muốn ra đi đến những vùng xa xôi và gặp gỡ những nền văn hoá khác biệt.
- Giai đoạn 1946–1954, tám năm truyền giáo giữa dân tộc Sré.
- Năm 1949, xuất bản một cuốn từ điển tiếng Sré. Tham gia ủy ban chuẩn hoá chính thức về hệ thống phiên âm của ngôn ngữ Sré.
- Năm 1954, chấm dứt thời kỳ Đông Dương thuộc Pháp. Cao nguyên Trung phần được đặt dưới quyền quản lý hành chính của nước Cộng hoà mới – Miền Nam Việt Nam.
- Từ năm 1955, người tị nạn từ miền Bắc Việt Nam được đưa lên định cư tại vùng Cao nguyên, cùng với làn sóng lớn người Việt đến khai hoang lập nghiệp.
- Giai đoạn 1954–1955, khủng hoảng ơn gọi, thực hiện một thời gian tĩnh tâm tại Algérie, theo bước chân Cha Charles de Foucauld.
- Giai đoạn 1955–1968, mười ba năm truyền giáo giữa dân tộc Jörai.ous avons mangé la forêt » (Chúng tôi đã ăn khu rừng), dựa trên công trình điền dã của ông giữa người Thượng tại làng Sar Luk.
- Từ năm 1959, tình hình bất ổn ngày càng gia tăng trên vùng Cao nguyên, dẫn đến việc di dời các cộng đồng dân tộc thiểu số khỏi làng mạc của họ.
- Năm 1962: lưu trú tại Rôma nhân dịp khai mạc Công đồng Vaticanô II.
- Năm 1963: xuất bản tác phẩm “Dieu aime les païens” (Thiên Chúa yêu thương người ngoại giáo), cuốn sách thần học đầu tiên của ngài.
- Năm 1964: lưu trú tại Rôma để tham dự khóa họp thứ hai của Công đồng Vaticanô II, với tư cách là chuyên viên (peritus) về truyền giáo học.
- Năm 1964: xuất bản một cuốn từ điển tiếng Jörai.
- Năm 1968 (tháng Giêng), tạm ngưng sứ vụ, trở về Paris để bảo vệ luận văn tại EPHE với đề tài « Bois-Bambou, aspect végétal de l’univers Jörai » (Cây gỗ và tre – khía cạnh thực vật trong thế giới của người Jörai). Được bầu làm thành viên của CEDRASEMI (Trung tâm Nghiên cứu về Đông Nam Á và Thế giới Hải đảo).
- Năm 1969, « chuyến hành trình tam giác » đến Sumatra và Borneo, với mục đích so sánh các nền văn hoá Nam Đảo (Austronésiennes).
- Năm 1970, trở về Pháp vĩnh viễn, rời xa Hội Thừa Sai Paris (MEP) nhưng không cắt đứt hoàn toàn mối liên hệ với Hội.
- Năm 1972: trình luận án tiến sĩ cấp 3 với đề tài « Coordonnées : structures jörai familiales et sociales » (Tọa độ: Cấu trúc gia đình và xã hội của người Jörai).
- Giai đoạn 1972–1987: làm công tác nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (CNRS) ở Paris.
- Năm 1973, trình luận án Tiến sĩ Quốc gia trước Giáo sư Claude Lévi-Strauss, với đề tài « Pötao, une théorie du pouvoir chez les Indochinois jörai » (Pötao, một lý thuyết về quyền lực nơi người Đông Dương Jörai).
- Năm 1975: tham gia thành lập nhóm nghiên cứu “Oralité et domaines oraux” (Truyền khẩu và các lĩnh vực văn hóa truyền miệng) tại Trường INALCO (Viện Ngôn ngữ và Văn minh Phương Đông, Pháp).
- Năm 1993 (tháng Ba): qua đời tại nhà riêng ở vùng Gard, và được an táng trong nghĩa trang của Hội Thừa Sai Paris (MEP).
Sré và Jörai: hai dân tộc « người Thượng » sinh sống trên vùng Cao nguyên của
Việt Nam.

Ở vùng giáp ranh giữa Việt Nam, Lào và Campuchia, có một dải đất dài khoảng
600 km theo hướng Bắc-Nam, nơi sinh sống của hơn 50 dân tộc thiểu số, mỗi dân
tộc đều có ngôn ngữ và truyền thống riêng. Đây là vùng cao nguyên có độ cao trung
bình khoảng 600 mét, hiện nay chỉ riêng trên lãnh thổ Việt Nam đã có khoảng 1,3
triệu người thuộc các dân tộc này. Cho đến giữa thế kỷ XX, họ vẫn còn bị gọi bằng
từ ngữ miệt thị « Mọi » (nghĩa là « người rừng », « man di »), nhưng ngày nay họ
được gọi một cách trân trọng hơn là « người Thượng » (Montagnards).
Tuy mỗi dân tộc có ngôn ngữ và phong tục khác nhau, nhưng khung cảnh sống và
tổ chức xã hội của họ lại có nhiều điểm chung. Rừng chính là không gian sinh tồn
của họ, trải dài từ những đỉnh núi cao đến 2.000 mét cho đến những cánh đồng bằng
được tưới mát bởi các phụ lưu của sông Mê Kông. Để có đất trồng lúa nước, người
Thượng phát rừng bằng cách đốt và để đất nghỉ luân phiên, một kỹ thuật gọi là du
canh du cư (défrichement par brûlis et jachère forestière / slash-and-burn). Họ « ăn
rừng », như cách nói đầy chất thơ của Georges Condominas. Chính vì không gian
sinh tồn bị giới hạn bởi thế giới thực vật chiếm ưu thế, làng trở thành đơn vị xã hội
cơ bản và phù hợp nhất, không có cơ cấu quyền lực phân cấp nào cao hơn tồn tại
bên trên nó.
Người Thượng thường xuyên giao lưu giữa các dân tộc với nhau, nhưng ít có tiếp
xúc với người Việt, những người từ lâu vẫn nhìn họ với ánh mắt vừa tò mò vừa xa
lạ. Từ năm 1849, các linh mục thuộc Hội Thừa Sai Paris (MEP) đã là những người
phương Tây đầu tiên đến gặp gỡ và truyền giáo giữa họ, lâu trước khi người Pháp
đặt ách thuộc địa. Ngoại trừ công cuộc truyền giáo trong nhóm dân tộc Bahnar phát
triển mạnh ở vùng Kontum, các « sứ vụ vùng Cao nguyên » còn lại nhìn chung vẫn
khá khiêm tốn cho đến Thế chiến thứ hai.
Chính trong bối cảnh đó, năm 1946, nhà truyền giáo trẻ Jacques Dournes được
Đức Giám mục Sài Gòn sai phái đến sống giữa dân tộc Sré, ở phía nam Đà Lạt.
Mười năm sau, Cha Dournes đổi sứ vụ và chuyển đến sinh sống ở phía Bắc hơn,
giữa dân tộc Jörai (khoảng 320.000 người), một dân tộc mà ngài gắn bó sâu sắc và
cũng là đối tượng chính của các công trình nghiên cứu của ngài cho đến cuối đời.



